• Chào mừng bạn đến với diễn đàn Lục Ngạn ngày nay
    Bạn có thể tạo các chủ đề hữu ích và thảo luận tự do (văn minh, lịch sự)

Phân tích đoạn thơ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc … Sông Mã gầm lên khúc độc hành” của Quang Dũng

Hoàng Anh

Member
Đề số 3. Phân tích đoạn thơ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Tây Tiến.jpg

Mở bài

Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật nhà thơ Bằng Việt đã từng viết: “ Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Vâng, có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương. Nhưng có những tác phẩm như “dòng sông đỏ nặng phù sa”, “ như bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” in dấu, chạm khắc trong tâm khảm người đọc để “suốt đời đi vẫn nhớ mãi ko quên”. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính, vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian trở thành những bài ca đi cùng năm tháng. Một trong những bài ca như thế phải kể đến “ Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ chính là bức tượng đài bất tử về người lính cụ Hồ trên nền thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Đoạn thơ sau là một bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


Thân bài

1. Khái quát
...
- Đoạn 3: Những vần thơ trên là đoạn thơ thứ ba của tác phẩm. Hiện lên trong đoạn thơ là hình ảnh ngươi lính với vẻ đẹp bi tráng từ ngoại hình, diện mạo đến tâm hồn, lí tưởng và sự hi sinh anh dũng.

Hình ảnh người lính trở thành hình tượng quen thuộc trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Nếu đến với Đồng Chí của Chính Hữu người đọc cảm nhận được vẻ đẹp chân chất giản dị của những người anh hùng áo vải xuất thân từ giếng nước gốc đa (Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”). Họ vốn là những người nông dân “cui cút làm ăn” quanh năm bên lũy tre làng, nhưng khi đất nước bị xâm lăng những con người thầm lặng ấy “Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng”( Nguyễn Đình Thi). Còn đến với những người lính Tây Tiến, họ vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức đất Hà thành, theo tiếng gọi của TQ “ Xếp bút nghiên theo việc binh đao”. Chính vì vậy người lính Tây tiến trong thơ QD mang vẻ đẹp riêng vừa hào hoa lãng mạn vừa hào hùng bi tráng.

2. Phân tích

a. Hai câu đâu đoạn: hình ảnh người lính hiện lên với ngoại hình đậm chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
- Trước hết, cái bi thương trong câu thơ được gợi lên từ hình ảnh đoàn quân: "không mọc tóc", "xanh màu lá". Đây là những hình ảnh điển hình cho sự thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh.
+ "Không mọc tóc" là do người lính tự cắt (phục vụ chiến đấu) hoặc do hậu quả của sốt rét rừng.
+ "Quân xanh màu lá": cũng có hai cách hiểu: màu lá nguỵ trang hoặc đây là thủ pháp tăng cấp nhấn mạnh thêm một lần nữa hậu quả của bệnh sốt rét. Hiểu theo cách thứ hai, câu thơ sẽ có giá trị tu từ cao hơn.
=> Như vậy, cả hai hình ảnh đều là những hình dung về những khó khăn gian khổ của những người lính Tây Tiến. Họ phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét rừng hoành hành dữ dội. Viết về những khó khăn này, bạn thân của Quang Dũng, nhà thơ Trần Lê Văn đã khẳng định: "lính Tây Tiến đánh trận tử vong ít sốt rét rừng tử vong nhiều".
+ Liên hệ: Hiện thực khó khăn bệnh tật không xa lạ trong thơ kháng chiến. Cùng năm 1948, trong bài "Cá nước", Tố Hữu viết đầy trìu mến:
"Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ"
Hay Chính Hữu cũng từng cảm nhận trạng thái:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
Cái hay của Quang Dũng là ông không sử dụng bút pháp hiện thực giống các nhà thơ khác. Ông đã sử dụng bút pháp lãng mạn để tái tạo vẻ đẹp độc đáo, phi thường của đoạn quân có một không hai trong lịch sử.
- Tuy nhiên, bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng. Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến được gợi lên nhờ biện pháp đối lập, đảo ngữ và sử dụng từ Hán Việt "đoàn binh".
+ Quang Dũng viết "không mọc tóc" chứ không phải "tóc không mọc". Biện pháp đảo ngữ đã biến cái bị động, tóc rụng do bệnh sốt rét thành phong thái chủ động, ung dung, coi thường gian khổ. Đó là sự ngang tàng, hóm hỉnh của những chàng học sinh, sinh viên ra đi từ mảnh đất Hà thành. Họ không cần mọc tóc.
+ Cái hào hùng còn toát lên qua việc sử dụng từ Hán Việt: "đoàn binh", so với từ "đoàn quân mỏi" ở khổ 1 thì từ "đoàn binh" gợi số lượng đông và hùng mạnh, nó khiến cho câu thơ mạnh mẽ hẳn lên.
+ Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng thành công phép tương phản giữa ngoại hình ốm yếu và tinh thần chiến đấu. Dù diện mạo, ngoại hình của những người lính có thể tiều tuỵ vì bệnh tật nhưng tinh thần chiến đấu vẫn mạnh mẽ vô cùng. Điều đó được thể hiện qua ba chữ: "dữ oai hùm". Khí thế ấy người đọc đã từng bắt gặp trong văn học trung đại:
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão
Do đó, vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến có sự cộng hưởng, âm vang của truyền thống và tinh thần hiện đại, giữa những người chiến binh năm xưa và những người lính cụ Hồ hôm nay.
=> Phẩm chất anh hùng của những người lính trong chiến tranh được khắc hoạ độc đáo, khác biệt. Với ngôn từ cổ điển, Quang Dũng đã tạo nên hình ảnh người lính sang trọng, mang dáng dấp của những bậc anh hùng thủa trước, khắc hẳn với những hình ảnh dân dã, thuần Việt trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu.
 

Hoàng Anh

Member
b. Hai câu tiếp, để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc về những chàng trai Hà thành với tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- “Mắt trừng” như một nét vẽ ấn tượng thể hiện sắc nét ‎ý chí quyết tâm giết giặc cứu nước của người lính TT. Mắt trừng là đôi mắt mở to, trừng trừng nhìn thẳng về phía quân thù với lòng sục sôi căm hờn thề sống chết không đội trời chung với quân xâm lược. Đó là đôi mắt thể hiện rõ tư thế oai phong lẫm liệt của những trang nam nhi thời loạn mang trong mình giấc mộng lớn. Đó là giấc “mộng” giết giặc lập công báo đền nợ nước. Khát vọng ấy xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi, sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
- Cùng với mộng lớn” là “mơ - đêm mơ HN dáng kiều thơm”. Vốn là những thanh niên, tri thức đất Thăng Long - mảnh đất nghìn năm văn hiến, người HN vốn hào hoa thanh lịch ("Không thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An") nên khi ra đi những chàng trai TT cũng mang theo một bóng hồng, một dáng kiều thơm chốn quê nhà. Đến đây ta bỗng nhớ đến hai câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
- Có một thời giấc mộng giai nhân của người lính TT bị coi là mang màu sắc tiểu tư sản, là ủy mị, ướt át. Nó làm nhụt chí chiến đấu của người lính đang xông pha ngoài chiến trận. Nhưng xét cho cùng giấc mơ ấy thật chính đáng và rất đỗi nhân văn. Nó làm cho người lính đẹp hơn, gần gũi hơn và NGƯỜI hơn. Trong chiến đấu họ là những anh hùng, can trường dũng cảm, với ý‎ chí sắt đá và lòng sục sôi căm hờn nhưng trở lại cuộc sống họ cũng là những con người đời thường với một trái tim biết yêu, biết rung động. Tình yêu, khát vọng hp lứa đôi đã hài hòa nồng thắm trong tình yêu TQ, cái riêng hòa trong cái ta chung. Như nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng viết:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Bởi:
“ Anh yêu em như yêu Đất Nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”
Tình yêu lứa đôi khát vọng hạnh phúc trở thành động lực thôi thúc các anh vững tay súng, bảo vệ quê hương và vươn tới một ngày mai đoàn tụ.
- Sau này, trong "Những ngôi sao xa xôi" (Lê Minh Khuê, 1971), điểm tựa vững bền nhất của Phương Định giúp cô đi qua đạn bom trên cao điểm là nỗi nhớ bầu trời đầy sao nơi phố thị. Ở "Nỗi buồn chiến tranh" (Bảo Ninh, 1987) niềm khắc khoải về Phương và Hà Nội cũng giúp Kiên giữ vững tính người, vượt lên những tàn khốch uỷ diệt. Ngay từ năm 1948, ngòi bút của Quang Dũng đã dũng cảm, chân thật và tinh tế khắc dấu ấn nhân bản, để một nét chạm thôi cũng đủ để thi phẩm sống mãi.
=> Có thể nói, chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những giây phút mộng mơ trong tâm hồn người lính.
c. Nói đến chiến tranh là nói đến những mất mát đau thương, QD ko hề né tránh hiện thực tàn khốc đó nhưng nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Câu thơ thứ nhất tạc lại hình ảnh thật lạnh lẽo, thê lương
+ Phép đảo từ láy "rải rác" lên đầu câu, hình ảnh "biên cương", "mồ viễ xứ": gợi không gian tử địa xa xôi, quạnh hưu, hoang lạnh. "Rải rác" đâu đó nơi "biên cương" xã xôi của tổ quốc những nấm "mồ viễn xứ" không một vòng hoa, không một nén hương. Dòng thơ như một nốt nhạc buồn gợi cho người đọc nhiều xót xa. Đọc câu thơ tôi chợt nhớ đến đến hình ảnh của người chinh phu trong “ Chinh phụ ngâm khúc”:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mặc mặt, nào ai gọi hồn”.
+ Thế nhưng, những yếu tố bi thương ấy trong thơ QD lại được giảm nhẹ đi nhờ việc sử dụng những từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang nghiêm: “biên cương”, “mồ viễn xứ” gợi lên không khí cổ kính, trang nghiêm.
- Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đưa câu thơ trước lên cao. "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" khiến cái bi thảm ở câu trước trở nên bi tráng. Cái không khí bi quan biến mất chỉ còn lại cái ngang tàng ngạo nghễ của người chiến binh Tây Tiến. “Đời xanh” là quãng đời đẹp nhất, là tuổi trẻ, là tuổi xuân của mỗi người. Tuổi trẻ ai chẳng mang trong mình khát vọng tình yêu hạnh phúc, ai chẳng muốn có những tháng ngày hoa mộng? Thế nhưng họ đã ra đi “chẳng tiếc” đời mình giống như lời thơ của Thanh Thảo:
“ Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi TQ?”
Hai tiếng “chẳng tiếc” vang lên chắc nịch khẳng khái với thái độ quyết tâm thậm chí có phần bất cần thể hiện khí phách ngang tàng của tuổi trẻ. Những chàng trai TT sẵn sàng hiến dâng tuổi trẻ, thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của TQ, vì sự bình yên của nhân dân. Họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng “thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp của những trang nam nhi thời loạn. Chính những chàng trai ấy đã không tiếc thanh xuân của cuộc đời mình để làm nên thanh xuân của Đất Nước: “Họ đã sống và chết/ giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm nên đất nước”.
=> "Tây Tiến" tài hoa nhưng không mất lái trên đường ray thơ kháng chiến.
- Hai câu thơ cuối vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
+ Sự thật bi thảm là những người lính Tây Tiến hi sinh trên đường hành quân không có đến một manh chiếu để khâm liệm. Đây là sự khó khăn, gian khổ, thiếu thốn về vật chất ta vẫn thường gặp trong thơ ca giai đoạn đầu của kháng chiến: "Ở đây không gỗ ván/ Vùi anh trong tấm chăn" ("Viếng bạn" – 1948). Thế nhưng, xuất phát từ tình yêu đồng đội, hồn thơ hào hoa của Quang Dũng đã tìm được hình ảnh đẹp để "sang trọng hoá" cái chết. "Áo bào" vốn là những chiến bào của các vua chúa, tướng lĩnh thưở xưa. Hình ảnh ấy không chỉ làm mờ đi thực tế khó khăn, thiếu thốn của chiến trường mà còn tạo lên không khí cổ kính, trang nghiêm cho sự hi sinh của người lính TT. Nó cũng gợi được hào khí của những tráng chí thời xưa “sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây”. Theo Quang Dũng đây là cách nói để "an ủi linh hồn người lính"
+ Biện pháp nghệ thuật nói giảm, nói tránh: "anh về đất" không chỉ diễn tả được sự hi sinh của những người lính mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của nhà thơ đối với người ở lại. Người lính ngã xuống cũng là trở về với đất mẹ, trở về trong lòng Tổ quốc yêu thương, hoà linh hồn vào hồn thiêng sông núi, để hóa thân làm nên dáng hình của xứ sở, để trường tồn, bất tử cùng núi sông. Đến đây ta chợt nhớ đến những vần thơ đầy xúc động của nhà thơ Nguyên Khoa Điềm:
Ôi đất nước bốn ngàn năm đi đâu
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Vâng! Máu xương của họ đã gửi về đất mẹ làm cho “lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”, làm cho tinh thần VN thêm bất khuất kiêu hùng. Chính những người anh hùng ấy đã làm nên lịch sử, làm nên tượng đài VN bất tử. Thế cho nên, chúng ta hôm nay càng phải ghi nhớ, khắc sâu lời dặn dò của thê hệ cha ông:
“ Em ơi em
ĐN là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên ĐN muôn đời”
( Đât Nước- Nguyễn Khoa Điềm)
- Kết thúc đoạn thơ là khúc hát bi tráng của dòng sông lịch sử “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã là chứng nhân lịch sử chứng kiến bao vui buồn được mất trên bước đường hành quân của những chiến binh TT. Dòng sông oai hùng qua biện pháp nhân hóa đã trở thành một sinh thể biết đau đớn đang “gầm” lên khúc độc hành tiễn đưa người lính trở về với đất mẹ thiêng liêng. Trong âm vang hào hùng, dữ dội của thiên nhiên, sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà ngược lại thấm đấm chất anh hùng ca của thời đại HCM.
=> Quang Dũng đã viết về sự hi sinh của những người lính rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối.

3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật: kiến thức cơ bản.
- Ý nghĩa: Với tám câu thơ mang cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng QD đã khắc họa thành công hình tượng người lính TT với đầy đủ các phương diện, từ diện mạo, tâm hồn, lý tưởng, khát vọng và cả sự hi sinh cao đẹp. Ở họ tất cả đều phi thường, đáng trân trọng, khâm phục. Ẩn đằng sau bức tượng đài người lính TT ta bắt gặp 1 tấm lòng trân trọng, yêu mến vô bờ với đồng đội và tha thiết với non sông đất nước của QD.

Mẫu: Đoạn thơ số ba trong bài "Tây Tiến của Quang Dũng đã xây dựng được bức tượng đài bi tráng về người lính. Đoạn thơ đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Cuối cùng, xin trích đoạn thơ sau của tác giả Giang Nam thay cho lời kết:
TT biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông

suu tam
 

Bài mới nhất trong hồ sơ

Mùa cam, bưởi Lục Ngạn 2023 đến rồi :)
Đến mùa mật ong hoa vải nữa rồi
Chúc mừng năm mới 2023.chúc nhà nhà đón Tết bình an hạnh phúc
Việt Nam vô địch AFF CUP 2022
Tấm vé chung kết gọi tên những Chiến binh Sao vàng trong ngày toả sáng của Tiến Linh!
Xin được chúc mừng thầy trò HLV Park Hang-seo!
Bên trên