Hoàng Anh
Member
Mở bài: phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Có một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên …” Có một bài ca như thế. Và cũng có một bài thơ viết về những năm tháng “không bao giờ quên”, không phai mờ trong kí ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó là bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng. Bài thơ chính là bức tượng đài bất tử về người lính cụ Hồ trên nền thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Đoạn thơ sau là những vần thơ hay nhất viết về cuộc hành quân gian khổ và cảnh thiên nhiên Tây Bắc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
…
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Thân bài
1. Khái quát
- Quang Dũng: Quang Dũng (1921 – 1988) là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc. Nhưng QD trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
- Đoàn binh Tây Tiến: Tây Tiến là tên bài thơ đồng thời cũng là tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947 do Quang Dũng làm tiểu đội trưởng. Đoàn binh Tây Tiến gồm phần đông là thanh niên, học sinh, sinh viên xuất thân từ đất Hà thành nên họ có tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Sau khi bảo vệ biên giới phía Tây của Tổ quốc được 1 năm thì Tây Tiến giải thể.
- Hcst: Cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về đơn vị cũ đã sáng tác bài thơ Tây Tiến.
- Nhận xét, đánh giá: "Tây Tiến" là thi phẩm xuất sắc của QD, của thơ ca kháng chiến viết về người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức.
- Đoạn 1: Những vần thơ trên là đoạn thơ đầu tiên của tác phẩm. Hiện lên trong đoạn thơ là thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình và chặng đường hành quân đầy gian lao, vất vả, hi sinh của những người lính Tây Tiến.
2. Phân tích
a. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
- Đối tượng của nỗi nhớ:
+ Trước hết, nỗi nhớ dành cho Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính.
+ Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết trìu mến “Tây Tiến ơi!”. Vần “ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả.
+ Đối tượng thứ 3 của nỗi nhớ là “nhớ về rừng núi”, địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến với bao kỉ niệm.
=> Tất cả nay đều đã “xa rồi” “xa rồi”. Chính vì thế, nỗi nhớ mới trở nên da diết đến vậy.
LHMR: Nỗi nhớ trong thơ ca Việt Nam thường gắn với quê hương, gia đình, con người. Còn Quang Dũng đã góp thêm nỗi nhớ về một miền đất, một địa danh, một đơn vị.
- Sắc thái của nỗi nhớ:
+ Tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc nhất qua 3 từ: “Nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng, làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.
+ Đây là cách dùng từ rất “đắc địa” và sáng tạo của Quang Dũng. Bởi vì trạng thái “chơi vơi” rất hợp với không gian rừng núi.
+ Thêm nữa, điệp từ “nhớ” được nhắc lại 2 lần trong một câu thơ khiến cho nỗi nhớ càng trở nên da diết. Thán từ “ơi” kết hợp với vần “ơi” trong từ “chơi vơi” tạo nên âm hưởng nỗi nhớ ngân nga, vang vọng trong lòng người.
=> Hai câu mở đầu với nghệ thuật điệp từ, điệp vần đã khơi nguồn cảm xúc cho toàn bài thơ. Đó là nỗi nhớ miên man, bồi hồi trong lòng người, để từ đó mở ra con đường hành quân vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình cùng với bao kỉ niệm của những năm tháng không bao giờ quên.
b. Hai dòng thơ tiếp theo: nỗi nhớ được cụ thể hóa qua các địa danh:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Sài Khao, Mường Lát là những địa danh mà Quang Dũng và đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, đóng quân.
- Ở câu thơ đầu đoạn nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả thực.
+ Sương trên đỉnh Sài Khao dày đến độ che “lấp”, nuốt cả đoàn quân. Đây chính là sự khắc nghiệt của thời tiết Tây Bắc, là những khó khăn gian khổ đời lính phải trải qua.
LHMR: Rất nhiều nhà thơ đã từng viết về những khó khăn ấy:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa rầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Nhưng nếu Tố Hữu đã miêu tả cụ thể cảnh sống của người lính còn QD không làm thế. Ông chỉ miêu tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua đó ai cũng hiểu đời lính là như thế, họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Hơn nữa, phải nhớ rằng, lính Tây Tiến phần đông là học sinh, sinh viên đô thành nên cảnh núi rừng với họ càng trở nên xa lạ. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh sương dày để tái hiện sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc. ("Việt Bắc" Tố Hữu: "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù")
+ Thêm nữa từ "mỏi": trạng thái yếu đuối, rệu rã. Đây là một hình ảnh thơ rất con người, rất bình thường; một hình ảnh lạ trong thơ ca kháng chiến. Bởi nó tả thực một cách gân guốc, trần trụi, không qua một lăng kính lí tưởng nào. Khác hẳn với những câu thơ thời bấy giờ như: "Đường ra trận mùa này đẹp lắm" hay "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai".
=> Câu thơ đã tạo nên hình ảnh đoạn quân Tây Tiến rất con người và góc nhìn nhân bản chân thật.
- Câu thơ thứ hai nhà thơ lại sử dụng bút pháp lãng mạn. Nếu câu thơ trên đọng lại ở chữ “mỏi” như hơi thở nặng nhọc của con người, thì đến câu thơ này, mọi cảm giác mệt mỏi đều bị xóa tan bởi những hình ảnh đẹp lung linh như trong cõi mộng: “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” có thể là hoa nở, có thể là những ngọn đuốc soi đường các anh hành quân. Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh hoa trong đêm sương bồng bềnh cũng đều lãng mạn và nên thơ.
=> Có thể nói, sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn hào hoa.
c. Bốn câu tiếp: là những câu tuyệt bút trong bài "Tây Tiến"
Dốc lên khúc khuỷ dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, sứng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu đầu đoạn đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính Tây Tiến.
+ Câu thơ “Dốc lên khúc khủy đốc thăm thẳm” miêu tả trực tiếp dốc núi miền Tây trập trùng hiểm trở. Từ láy “khúc khủy”, “thăm thẳm” kết hợp với biện pháp điệp thanh trắc, câu thơ 7 chữ thì có đến 5 thanh trắc đã tạo nên âm hưởng gập ghềnh. Đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi giống như đang hành quân cùng những người lính Tây Tiến. Thêm nữa, cậu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu hai vế câu đã thể hiện thành công sự nối tiếp của những con dốc, con dốc này chưa qua con dốc khác đã đợi sẵn. Dường như núi rừng miền Tây muốn thử thách ý chí nghị lực của người lính.
+ Chưa hết, độ cao của dốc núi Tây Bắc còn được miêu tả gián tiếp trong câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ láy “heo hút” vừa gợi độ cao, vừa gợi sự xa vắng được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự hoang sơ, vắng vẻ của những con dốc. “Cồn mây” nghĩa là mây chồng chất, dựng lên thành cồn, mây bao phủ đường núi, mịt mờ, chập trùng khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở. Đặc biệt, hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” đã tái hiện đúng độ cao của dốc núi. Khi người lính đi trên đỉnh núi, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận thực của thị giác. Đồng thời, từ “ngửi” đã tạo nên chất lính, sự trẻ trung, tếu táo hóm hỉnh của những chàng trai ra đi từ sân trường góc phố. Đặc biệt, nó còn gợi ra tâm thế của con người đứng trên đỉnh cao làm chủ hoàn cảnh, khiến cho "Tây Tiến" của Quang Dũng dù có nét đau thương nhưng không bi luỵ, không lạc nhịp thơ kháng chiến, vẫn hùng tráng, mạnh mẽ.
+ Đến cậu thơ thứ 3, thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức nữa mà đã trở thành đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Điệp ngữ, hoán dụ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật để đặc tả độ cao của dốc. Dấu phẩy giữa dòng thơ, sự tương phản của hai động từ “lên” “xuống” khiến cho câu thơ như bị bẻ đôi để miêu tả những con dốc có chiều cao, chiều sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- Cuối cùng, nhà thơ Quang Dũng đã cho độc giả cùng đoàn quân của mình được nghỉ ngơi bằng một câu thơ êm dịu, thơ mộng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn thanh bằng đã gợi tả được một không gian mênh mông dàn trải và nhạt nhòa trong mưa. Nhịp thơ cùng chậm lại, nhẹ nhàng giống như phút dừng chân nghỉ ngơi của người lính trẻ. Hình ảnh ẩn dụ “mưa xa khơi” làm hiện lên trước mắt độc giả một biển mưa, không gian bỗng trở nên mênh mông, xa vời ... Cả núi rừng chìm trong mưa và ánh mắt của người lính hướng đến ngôi nhà thấp thoáng trong màn mưa hư ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho những ngôi nhà cũng trở nên mơ hồ, xa xăm. Dù vậy, hình ảnh “nhà” giữa núi rừng, trong màn mưa buốt lạnh vẫn gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào dâng nỗi nhớ nhung xao xuyến lòng người xa quê.
=> Chỉ với bốn câu thơ, Quang dũng đã vẽ lại bức tranh núi rừng TB vừa gân guốc, khoẻ khắn vừa mềm mại, thơ mộng.
“Có một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên …” Có một bài ca như thế. Và cũng có một bài thơ viết về những năm tháng “không bao giờ quên”, không phai mờ trong kí ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó là bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng. Bài thơ chính là bức tượng đài bất tử về người lính cụ Hồ trên nền thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Đoạn thơ sau là những vần thơ hay nhất viết về cuộc hành quân gian khổ và cảnh thiên nhiên Tây Bắc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
…
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Thân bài
1. Khái quát
- Quang Dũng: Quang Dũng (1921 – 1988) là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc. Nhưng QD trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
- Đoàn binh Tây Tiến: Tây Tiến là tên bài thơ đồng thời cũng là tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947 do Quang Dũng làm tiểu đội trưởng. Đoàn binh Tây Tiến gồm phần đông là thanh niên, học sinh, sinh viên xuất thân từ đất Hà thành nên họ có tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Sau khi bảo vệ biên giới phía Tây của Tổ quốc được 1 năm thì Tây Tiến giải thể.
- Hcst: Cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về đơn vị cũ đã sáng tác bài thơ Tây Tiến.
- Nhận xét, đánh giá: "Tây Tiến" là thi phẩm xuất sắc của QD, của thơ ca kháng chiến viết về người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức.
- Đoạn 1: Những vần thơ trên là đoạn thơ đầu tiên của tác phẩm. Hiện lên trong đoạn thơ là thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình và chặng đường hành quân đầy gian lao, vất vả, hi sinh của những người lính Tây Tiến.
2. Phân tích
a. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
- Đối tượng của nỗi nhớ:
+ Trước hết, nỗi nhớ dành cho Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính.
+ Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết trìu mến “Tây Tiến ơi!”. Vần “ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả.
+ Đối tượng thứ 3 của nỗi nhớ là “nhớ về rừng núi”, địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến với bao kỉ niệm.
=> Tất cả nay đều đã “xa rồi” “xa rồi”. Chính vì thế, nỗi nhớ mới trở nên da diết đến vậy.
LHMR: Nỗi nhớ trong thơ ca Việt Nam thường gắn với quê hương, gia đình, con người. Còn Quang Dũng đã góp thêm nỗi nhớ về một miền đất, một địa danh, một đơn vị.
- Sắc thái của nỗi nhớ:
+ Tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc nhất qua 3 từ: “Nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng, làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.
+ Đây là cách dùng từ rất “đắc địa” và sáng tạo của Quang Dũng. Bởi vì trạng thái “chơi vơi” rất hợp với không gian rừng núi.
+ Thêm nữa, điệp từ “nhớ” được nhắc lại 2 lần trong một câu thơ khiến cho nỗi nhớ càng trở nên da diết. Thán từ “ơi” kết hợp với vần “ơi” trong từ “chơi vơi” tạo nên âm hưởng nỗi nhớ ngân nga, vang vọng trong lòng người.
=> Hai câu mở đầu với nghệ thuật điệp từ, điệp vần đã khơi nguồn cảm xúc cho toàn bài thơ. Đó là nỗi nhớ miên man, bồi hồi trong lòng người, để từ đó mở ra con đường hành quân vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình cùng với bao kỉ niệm của những năm tháng không bao giờ quên.
b. Hai dòng thơ tiếp theo: nỗi nhớ được cụ thể hóa qua các địa danh:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Sài Khao, Mường Lát là những địa danh mà Quang Dũng và đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, đóng quân.
- Ở câu thơ đầu đoạn nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả thực.
+ Sương trên đỉnh Sài Khao dày đến độ che “lấp”, nuốt cả đoàn quân. Đây chính là sự khắc nghiệt của thời tiết Tây Bắc, là những khó khăn gian khổ đời lính phải trải qua.
LHMR: Rất nhiều nhà thơ đã từng viết về những khó khăn ấy:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa rầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Nhưng nếu Tố Hữu đã miêu tả cụ thể cảnh sống của người lính còn QD không làm thế. Ông chỉ miêu tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua đó ai cũng hiểu đời lính là như thế, họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Hơn nữa, phải nhớ rằng, lính Tây Tiến phần đông là học sinh, sinh viên đô thành nên cảnh núi rừng với họ càng trở nên xa lạ. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh sương dày để tái hiện sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc. ("Việt Bắc" Tố Hữu: "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù")
+ Thêm nữa từ "mỏi": trạng thái yếu đuối, rệu rã. Đây là một hình ảnh thơ rất con người, rất bình thường; một hình ảnh lạ trong thơ ca kháng chiến. Bởi nó tả thực một cách gân guốc, trần trụi, không qua một lăng kính lí tưởng nào. Khác hẳn với những câu thơ thời bấy giờ như: "Đường ra trận mùa này đẹp lắm" hay "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai".
=> Câu thơ đã tạo nên hình ảnh đoạn quân Tây Tiến rất con người và góc nhìn nhân bản chân thật.
- Câu thơ thứ hai nhà thơ lại sử dụng bút pháp lãng mạn. Nếu câu thơ trên đọng lại ở chữ “mỏi” như hơi thở nặng nhọc của con người, thì đến câu thơ này, mọi cảm giác mệt mỏi đều bị xóa tan bởi những hình ảnh đẹp lung linh như trong cõi mộng: “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” có thể là hoa nở, có thể là những ngọn đuốc soi đường các anh hành quân. Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh hoa trong đêm sương bồng bềnh cũng đều lãng mạn và nên thơ.
=> Có thể nói, sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn hào hoa.
c. Bốn câu tiếp: là những câu tuyệt bút trong bài "Tây Tiến"
Dốc lên khúc khuỷ dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, sứng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu đầu đoạn đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính Tây Tiến.
+ Câu thơ “Dốc lên khúc khủy đốc thăm thẳm” miêu tả trực tiếp dốc núi miền Tây trập trùng hiểm trở. Từ láy “khúc khủy”, “thăm thẳm” kết hợp với biện pháp điệp thanh trắc, câu thơ 7 chữ thì có đến 5 thanh trắc đã tạo nên âm hưởng gập ghềnh. Đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi giống như đang hành quân cùng những người lính Tây Tiến. Thêm nữa, cậu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu hai vế câu đã thể hiện thành công sự nối tiếp của những con dốc, con dốc này chưa qua con dốc khác đã đợi sẵn. Dường như núi rừng miền Tây muốn thử thách ý chí nghị lực của người lính.
+ Chưa hết, độ cao của dốc núi Tây Bắc còn được miêu tả gián tiếp trong câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ láy “heo hút” vừa gợi độ cao, vừa gợi sự xa vắng được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự hoang sơ, vắng vẻ của những con dốc. “Cồn mây” nghĩa là mây chồng chất, dựng lên thành cồn, mây bao phủ đường núi, mịt mờ, chập trùng khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở. Đặc biệt, hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” đã tái hiện đúng độ cao của dốc núi. Khi người lính đi trên đỉnh núi, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận thực của thị giác. Đồng thời, từ “ngửi” đã tạo nên chất lính, sự trẻ trung, tếu táo hóm hỉnh của những chàng trai ra đi từ sân trường góc phố. Đặc biệt, nó còn gợi ra tâm thế của con người đứng trên đỉnh cao làm chủ hoàn cảnh, khiến cho "Tây Tiến" của Quang Dũng dù có nét đau thương nhưng không bi luỵ, không lạc nhịp thơ kháng chiến, vẫn hùng tráng, mạnh mẽ.
+ Đến cậu thơ thứ 3, thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức nữa mà đã trở thành đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Điệp ngữ, hoán dụ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật để đặc tả độ cao của dốc. Dấu phẩy giữa dòng thơ, sự tương phản của hai động từ “lên” “xuống” khiến cho câu thơ như bị bẻ đôi để miêu tả những con dốc có chiều cao, chiều sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- Cuối cùng, nhà thơ Quang Dũng đã cho độc giả cùng đoàn quân của mình được nghỉ ngơi bằng một câu thơ êm dịu, thơ mộng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn thanh bằng đã gợi tả được một không gian mênh mông dàn trải và nhạt nhòa trong mưa. Nhịp thơ cùng chậm lại, nhẹ nhàng giống như phút dừng chân nghỉ ngơi của người lính trẻ. Hình ảnh ẩn dụ “mưa xa khơi” làm hiện lên trước mắt độc giả một biển mưa, không gian bỗng trở nên mênh mông, xa vời ... Cả núi rừng chìm trong mưa và ánh mắt của người lính hướng đến ngôi nhà thấp thoáng trong màn mưa hư ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho những ngôi nhà cũng trở nên mơ hồ, xa xăm. Dù vậy, hình ảnh “nhà” giữa núi rừng, trong màn mưa buốt lạnh vẫn gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào dâng nỗi nhớ nhung xao xuyến lòng người xa quê.
=> Chỉ với bốn câu thơ, Quang dũng đã vẽ lại bức tranh núi rừng TB vừa gân guốc, khoẻ khắn vừa mềm mại, thơ mộng.