• Chào mừng bạn đến với diễn đàn Lục Ngạn ngày nay
    Bạn có thể tạo các chủ đề hữu ích và thảo luận tự do (văn minh, lịch sự)

Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Hoàng Anh

Member
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thành Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.

Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Dưới đây dàn ý và bài làm tham khảo phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng​

Mở bài:

- Giới thiệu vài nét về tác giả Quang Dũng
- Giới thiệu khái quát về bài thơ Tây Tiến

Thân bài:

- Khái quát chung về bài thơ Tây Tiến
  • Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên đường hành quân
  • Kỉ niệm tình quân dân gắn bó, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
  • Bức chân dung người lính Tây Tiến
  • Lời hẹn ước, lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây Bắc
- Đánh giá về nghệ thuật
  • Bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng
  • Sáng tạo độc đáo về hình ảnh, ngôn từ và giọng điệu
Kết bài:

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- Nếu một vài suy nghĩ, cảm xúc của em về bài thơ.

Xem thêm:
Xem thêm đề phân tích bài thơ Tây Tiến
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hoàng Anh

Member
Kháng chiến chông Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm "Tây Tiến" đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồn gió mới. Thông qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ.

Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Không chỉ viết thơ hay, ông còn được biết đến là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ vì thế cũng đầy mơ mộng. Cũng bởi thế mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc họa lại núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là khung cảnh ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ:

" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh "Sông Mã", "Tây Tiến" giờ đây đều như trở thành những người thân thương ruột thịt. Mà với nơi đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình cảm nhớ thương của mình. Cụm từ "nhớ chơi vơi" gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. Đó là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại, chơi vơi, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy vừa nhẹ nhàng, lại vừa mãnh liệt đến lạ. Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao điều. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời và hơn cả, đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác tỏng lòng thi sĩ Quang Dũng.

Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, không gian hiện lên đầy chất thơ:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

"Sài Khao", "Mường Lát" đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ "chơi vơi" của tác giả với hình ảnh "sông Mã" ở đầu. Thế nhưng đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp đi hình ảnh "đoàn quân mỏi" sau chặng đường dài. Cùng với sự "mỏi" sau chặng hàng quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ "hoa về" thay vì "hoa nở", "đêm hơi" chứ không phải "đêm sương". Cách kết hợp từ này gợi tả không gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Mỗi nơi mà bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những kỷ niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên.

Địa hình núi non hiểm trở "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại "thăm thẳm" như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể mất đi mạng sống của mình. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy "oai linh thác gầm thét", đêm đêm "cọp trêu người".

Quả là một nơi "rừng thiêng nước độc" thế nhưng những khó khăn đó không thể cản bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt người lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất rất đỗi trữ tình và chan chứa tình người. Những hình ảnh "hoa về trong đêm hơi", "mưa xa khơi" thật huyền ảo tạo xúc cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây Tiến.

Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hóa, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.

Tiếp theo, đoạn thơ thứ 3 của bài thơ Tây Tiến đã dựng lên bức tượng người lính Tây Tiến bất tử với thời gian. Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng. Hình ảnh những người chiến sĩ sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: thân hình tiều tụy vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến "không mọc tóc, xanh màu lá". Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ "xanh màu lá, dữ oai hùm". Mặc dù, chiến đấu trong gian khổ nhưng các anh quân dân vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn "mộng qua biên giới" - mộng chiến công, khao khát lập công; "mơ Hà Nội dáng kiều thơm" , mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch. Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc "mộng" và "mơ" ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công. Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng "đời xanh" cho Tổ quốc mà không hề tiếc nuối. Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

Khổ thơ cuối cùng, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là minh chứng đẹp đẽ của thời đại chống thực dân pháp. Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.

Qua bìa thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa được thiên nhiên Tây Bắc với đầy đủ sắc thái khác nhau. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trẻ nói chung. Họ sẵn sàng từ bỏ ánh điện phố thị, buông bút nơi giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù khó khăn, gian khổ chất chồng thì sự quyết tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt.



Sưu tầm
 

Hoàng Anh

Member
Phân tích bài thơ Tây Tiến

Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Thơ của ông thường viết về thời kỳ kháng chiến với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người, đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Bài thơ Tây Tiến chính là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

Tây Tiến sáng tác năm 1948 gợi cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và người chiến binh Tây Tiến. Gợi tả về những vẻ đẹp ấy, ngòi bút Quang Dũng đã thể hiện rất xuất sắc với sự chan chứa về cảm xúc.

Ngay tại đoạn mở đầu bài thơ, tiếng lòng của những chàng tuổi vừa đôi mươi đã thốt lên bởi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, dấu ấn kỷ niệm đọng lại qua câu chuyện đời bao tâm hồn yêu nước thầm lặng:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
....Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

Một bài thơ viết về nỗi nhớ Tây Tiến, thế mà hai câu mở đầu của đoạn lại có ý nhắc về "sông Mã" trước nhất. Phải chăng dòng sông Mã uốn quanh nơi đại ngàn Tây Bắc là hình ảnh đã đi sâu vào lòng người chiến sĩ?

Đây chắc hẳn là nơi đã gắn bó với các anh bằng những kỉ niệm đẹp nhất của thời trai trẻ, nơi mở đường cho những chiến dịch yêu thương, thắp cháy lên ngọn lửa của khát vọng tự do dân tộc hào hùng. Tiếng gọi nơi mái trường xin dừng lại, dấu chân ai in dày trên những đỉnh núi cao. Đoạn hành trình trước mắt còn nhiều gian truân, khó khăn và thử thách. Ở nơi xa, chỉ có tình đồng chí sống mãi.

Vần "ơi" như mở ra mênh mông bất tận khoảng lặng của nỗi nhớ, để gửi nó về phương xa, nỗi nhớ vô hình mà nay lại như bật thành hình khối, thành âm vang. Nhớ chơi vơi là một cách diễn đạt là về nỗi nhớ, dân gian ta có câu "nhớ ai bổi hỏi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi đống than". "Chơi vơi" của Quang Dũng vừa như đang ngân dài nỗi nhớ, mà cũng như đang làm vang xa nỗi nhớ vào cái điệp trùng bất tận của không gian. Nỗi nhớ giăng giăng cả đoạn thơ, dẫn dắt người đọc vào những miền cảm xúc dạt dào bất tận. Quang Dũng đã thổi vào tâm hồn người đọc những điệu nhạc, điệu thơ bất tận. Hình ảnh đầy chất thơ thấm đượm trong từng ý thơ. "Sương lấp, hoa về", những từ ngữ gợi cảm giác về sự mơ hồ, huyền diệu và như đang hàm chưa những khoảng vô ngôn rất đỗi trữ tình là vì thế. Những câu thơ của Quang Dũng như đưa người đọc vào đường biên khá giải, bất khả giải, để rồi cứ một nét mờ, lại một nét đậm, sau những cảnh tượng đầy thơ mộng trữ tình, lại là hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ dữ dội.

Các từ láy "khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút" như những nét vẽ sắc đã lột tả hết toàn bộ cảnh tượng núi rừng hiểm trở, hoang vu, heo hút thăm thẳm. Từ "khúc khuỷu" gợi cái gập ghềnh, trúc trắc của những cung đường. "Thăm thẳm" lại gợi lên chiều sâu hun hút và sự nguy hiểm của nơi rừng thiêng nước độc. Tiếp đó từ "heo hút" như vẽ cả cái ngút ngàn của rừng thiêng, lại cũng vừa gợi ra cái ớn lạnh của đường rừng mà ở câu thơ tiếp theo đó Quang Dũng đã hé lộ "đêm đêm Mương Hịch cọp trêu người". Thiên nhiên thì hùng vĩ nhưng đầy chông gai, lại ẩn tàng những con thú hoang dữ, nguy hiểm chập chùng như đang thách thức bước chân những người lính. Nhịp thơ nhanh, ngắn, dồn dập, như đang vẽ nên những cung đường hành quân trúc trắc, gập ghềnh, mà cũng như đang phổ một bản nhạc với nhịp điệu trên cung đường lính đã qua.

Điều đặc biệt trong bài thơ, tác giả Quang Dũng đã không hề né tránh hiện thực, mà tái hiện thực tế chiến trường và nỗi nhọc nhằn gian truân của những người lính, nếu câu thơ trên gợi sự mệt mỏi, uể oải, thì đến câu thơ thứ hai cụm từ "bỏ quên đời", như thấy được khí phách ngang tàn, đậm chất lính của những người chiến sĩ nơi đây. Trong khó khăn gian khổ, vẫn luôn ung dung tư thế tâm thế anh lính đất Hà thành, không chỉ hiên ngang giữa thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, dữ tợ, mà cũng thả hồn mình vào cái thơ mộng nơi đất rừng Tây Bắc.

Giữa cái heo hút, lạnh lẽo trên kia, thì phía dưới lại là hình ảnh khói lam chiều của cuộc sống dân dã ấm áp, đượm hương, đượm tình người của đồng bào miền núi. Đặc biệt trong câu thơ dưới, hồn thơ lãng mạn, đa tình của Quang Dũng như đã ngỏ hết vào hai chữ "mùa em", vừa gợi sự trẻ trung, tươi mới, vừa có chút gì đó đa tình, lãng mạn, tình tứ, mộng mơ. Chính những ranh giới và những nét pha trộn, đối kháng giữa hùng vĩ và thơ mộng đã làm cho bài thơ Tây Tiến trở nên đặc sắc, thú vị.

Khổ thơ cuối Quang Dũng đã thành công khắc họa chân dung đoàn quân mang tinh thần bi tráng, vừa anh dũng vừa lãng mạn hào hoa. Trên cái nền hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, người lính hiện lên với tư thế, tầm vóc tương xứng. Ngoại hình được gợi tả bởi những nét bút chân thực, ấn tượng "không mọc tóc" nước da xanh mét như tàu lá đó chính là di chứng của những trận sốt rét rừng. Tương phản với hình ảnh xanh xao là tinh thần oai hùng xông trận "dữ oai hùm". Bút pháp lãng mạn, tác giả phi thường hóa phẩm chất anh hùng, thể hiện sức mạnh chiến đấu vô địch, rung chuyển núi rừng, áp đảo kẻ thù. Bên cạnh sức mạnh chiến đấu là tâm hồn chiến sĩ trong những giờ phút thảnh thơi nơi chiến trường. Hình ảnh "mắt trừng gửi mộng" đã thể hiện tâm trạng tập trung, có cái nhìn vào sâu tâm tưởng, trong giấc mộng đắm chìm, hiện ra trong giấc mơ đó là "dáng kiều thơm", một nỗi nhớ người yêu tràn về cho thấy tâm hồn chiến sĩ trẻ trung, hào hoa, thanh lịch. Hình ảnh giấc mơ đẹp còn thấp thoáng tình yêu quê hương, đất nước. Cùng tinh thần hy sinh, sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc là một vẻ đẹp nổi bật của người chiến sĩ cụ hồ. Khép lại bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên "gầm" hình tượng hóa dòng sông, vừa diễn tả nỗi đau cuồn cuộn mà cũng mang tinh thần bi tráng. Sự âm vang của sông nước như khúc nhạc tiễn đưa linh hồn chiến sĩ, núi sông đồng cảm với nỗi đau con người.

Tây Tiến là cuộc sống, là tấm lòng, là con người thật của nhà thơ Quang Dũng. Với những cảm xúc mãnh liệt, chân thật, thơ có cả họa và nhạc cho thấy ngòi bút tài hoa của tác giả đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ mà chan hòa, vừa diễn tả tinh thần chiến đấu, vừa nói lên nỗi đau thương chiến tranh.
 

Hoàng Anh

Member
Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị... tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.

Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.

Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tíên? Không! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Gặp nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi”! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nổi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lí. Cùng vẫn sử dụng vần “ơi”, câu thơ có sức lan toả rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.

Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi
Nhớ về rừng núi...
Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao nhiềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn!
Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.

Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ. Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng, rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. Những khó khăn lại đến:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ... tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ.

còn nữa
 

Hoàng Anh

Member
Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da xanh xao “màu lá”. Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ s61ng đ46 chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm củangười lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mãn phãi kết hợp hài hoà mới có thể taạ nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng!

Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừngnúi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan bíên mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo “chẳng tíêc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu phương gởi gấm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sữ ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngụ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hoà vào đất mẹ. Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!
----
Hết

Sưu tầm
 

Hoàng Anh

Member
Một bài thơ để lại nhiều cảm xúc cho người đọc bởi nét tài hoa và anh dũng của những người chiến sĩ cách mạng, họ anh dũng luôn kiên cường bất khuất trên mọi chặng đường, hình ảnh đó đã thể hiện cho chúng ta thấy được một tâm hồn giàu lòng yêu thương và tinh thần anh dũng, tác phẩm đó chính là Tây Tiến của Quang Dũng. Tây tiếng là một địa danh mà tác giả đã từng gắn bó cuộc đời của mình để chiến đấu và gian nan vất vả trên từng chặng đường ở đây tác giả đang phải sống những năm tháng khó khăn và nguy hiểm nhất.

Tây Tiến là cái tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, mang một nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để thực hiện việc bảo vệ biên giới Việt - Lào, làm hao mòn lực lượng quân giặc. Xuất thân của những người lính Tây Tiến là đa số người Hà Nội, trong đây có rất nhiều học sinh, sinh viên. Nhà thơ Quang Dũng viết bài thơ để diễn tả mọi nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

Hai câu thơ đầu, nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ thốt lên thành lời "Tây Tiến ơi" là tiếng gọi thân thương, "nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ không thôi cho người thân, bao trùm không gian. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ và dữ dội. Những địa danh được nhà thơ nhắc đến trong bài "Sài Khao, Mường Lát" gợi tới không gian rất hẻo lánh, xa xôi. Những từ láy giàu sự tạo hình: "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", điệp từ "dốc", nghệ thuật điệp "Dốc lên ... dốc lên" gợi địa hình vô cùng hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.

Hình ảnh "súng ngửi trời" thể hiện sự nguy hiểm, cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái vui tính dễ thương của người lính trong đó. Nhịp thơ bẻ đôi "ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" diễn tả sự nguy hiểm của núi rừng Tây Bắc mà người lính phải đối mặt. Hình ảnh nhân hóa "cọp trêu người", "thác gầm thét" gợi đến không gian của sự hoang sơ, man dại; thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" mọi người lính phải thường xuyên đối mặt với điều kiện nguy hiểm nơi rừng thiêng nước độc. Quang Dũng đã sử dụng những thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình. Khung cảnh thiên nhiên có sự êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: "nhà ai Pha Luôn...", thanh bằng tạo cảm giác thực sự nhẹ nhàng, yên bình. HÌnh ảnh bi hùng về những người lính Tây Tiến "dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng mũ bỏ quên đời"; có thể hiểu hai câu thơ đơn giản nhất miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau những cuộc hành quân dài vô cùng mệt mỏi, cũng có thể hiểu như sự nghỉ ngơi nằm xuống của những người chiến sĩ anh hùng.


Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, thơ mộng những cũng có vô vàn sự hiểm nguy, đấy như thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.

Bên cạnh những lúc hành quân gian khổ, thì các anh chiến sĩ cũng có những kỉ niệm rất cảm động, đẹp đẽ về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Không khí đêm liên hoan tưng bừng với bao màu sắc độc đáo, đáng yêu, lộng lẫy: "bừng lên", "hội đuốc hoa",...

Tâm hồn người lính mang hồn nhà thơ, say đắm không thôi trong không khí ấm áp tình người: "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ". Một vẻ đẹp huyền ảo đến xao xuyến, hoang dại, thiêng liêng: "Chiều sương", "hồn lau nẻo bến bờ". Con người lao động bình dị, mộc mạc đáng yêu Tây Bắc "dáng người trên độc mộc", cảnh vật có sự đáng yêu, đầy sức sống: "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".

Hình tượng người lính Tây Tiến được nhà thơ tập trung miêu tả trong khổ cuối. Chân dung người lính được miêu tả chân thực: "đoàn binh không mọc tóc", "xanh màu lá", họ sống và chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước dù có trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ "dữ oai hùm". Những con người mang một tâm hồn nhà thơ và một trái tim đầy sự yêu thương "mắt trừng gửi mộng", "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", lấy hình bóng dáng của người thương, nơi quê nhà sẽ thành động lực chiến đấu. Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ dành cho dân tộc và con người Việt Nam.

Hình ảnh người lính sẵn sàng cống hiến hết mình tuổi trẻ của bản thân cho đất nước "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã ra đi thanh thản, nhẹ nhàng. Cái chết đã được lí tưởng hóa qua những hình ảnh những tráng sĩ xưa: "áo bào", "khúc độc hành"; thiên nhiên cũng cảm thấy đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn.Bài thơ là một dòng chảy dài da diết cháy bỏng của Quang Dũng nhớ về đồng đội thân yêu. Với âm hưởng thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn cùng hình ảnh phong phú sinh động. Quang Dũng đã không chỉ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình mà ông còn chạm khắc vào lịch sử bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Chính vì vậy mà bài thơ mãi mãi là một hoài niệm không thể quên trong lòng người đọc bây giờ và mãi mãi về sau.

Sưu tầm
 

Bài mới nhất trong hồ sơ

Mùa cam, bưởi Lục Ngạn 2023 đến rồi :)
Đến mùa mật ong hoa vải nữa rồi
Chúc mừng năm mới 2023.chúc nhà nhà đón Tết bình an hạnh phúc
Việt Nam vô địch AFF CUP 2022
Tấm vé chung kết gọi tên những Chiến binh Sao vàng trong ngày toả sáng của Tiến Linh!
Xin được chúc mừng thầy trò HLV Park Hang-seo!
Bên trên