lucngan
Member
Lục Ngạn là huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh Bắc Giang, có diện tích tự nhiên 101,728km2 với 30 xã, thị trấn, trong đó có 12 xã vùng cao, 18 xã, thị trấn miền núi. Dân số toàn huyện năm 2012 là 215.000 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 49%, với 08 dân tộc anh em (Kinh, Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Hoa, Dao, Cao Lan) sinh sống đan xen ở 394 thôn bản, khu phố, tạo nên sự giao thoa văn hoá đặc sắc mà ít nơi nào có được. Những giá trị văn hoá phi vật thể của các dân tộc vẫn còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn như: trang phục, phong tục, các làn điệu dân ca Sloong hao, Sli, lượn, hát đối…. Là vùng đất được hình thành và phát triển từ rất sớm, vào năm 1975, ngành khảo cổ đã phát hiện được ở Lục Ngạn di chỉ đồ đá cũ phân bố trên gò Non Trúc, giáp suối Nghè Mưa, đã tìm thấy 27 di vật bằng đá cuội gồm các công cụ có biên lưỡi theo chiều dọc, công cụ có biên lưỡi theo chiều ngang, công cụ có biên lưỡi vát chữ V, công cụ có biên lưỡi theo hình vòng cung cùng một số mảnh tước, thạch đá thuộc thời đại đồ đá cũ. Điều đó chứng tỏ con người đã đến sinh sống trên mảnh đất này từ rất sớm, nơi đây hội tụ những giá trị lịch sử, văn hóa đa dạng, tiêu biểu của văn hóa cộng đồng các dân tộc tỉnh Bắc Giang.
Vùng Lục Ngạn xưa có con đường chiến lược từ Đệ tứ chiến khu chạy qua xã Quý Sơn đến Đồng Giao, sang Mịn Con rồi sang Sậy To, Hồ Sen xã Thanh Hải, đi qua xã Kiên Lao và đến Đông Triều- Quảng Ninh và dòng sông Lục Nam lịch sử, tạo điều kiện thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, văn hóa của cả vùng.
Huyện Lục Ngạn là nơi có bề dày về truyền thống lịch sử- văn hóa với 01 di tích lịch sử cấp quốc gia (Đền Hả, Di tích lịch sử, được công nhận theo QĐ số 154/QĐ ngày 25/1/1991, thuộc xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn); 40 di tích lịch sử cấp tỉnh. Đây cũng là vùng đất có nhiều danh lam thắng cảnh có thể tạo nên những điểm tham quan du lịch hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về ngọn nguồn lịch sử. Đó là ải Nội Bàng, ải Xa Lý, với các di tích và danh lam thắng cảnh đẹp như đền Từ Hả (đền Hả), đền Quan Quận, hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần và núi Am Vãi- nơi in dấu bàn chân Phật. Nơi đây cũng đã sản sinh ra những vị anh hùng dân tộc, đóng góp một phần không nhỏ trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược từ ngàn xưa. Cũng từ truyền thống anh dũng bất khuất chống giặc ngoại xâm ấy, người dân các dân tộc sinh sống trên vùng đất Lục Ngạn đã lập nên các ngôi đình, đền, miếu để tưởng nhớ tới các chiến công của những người anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập tự do cho đất nước, từ Cao Sơn- Quý Minh- những vị tướng tài giỏi thời các vua Hùng, đến Thân Cảnh Phúc, Vi Hùng Thắng, Trần Hưng Đạo, Yết kiêu, Dã Tượng...Đó là các cụm di tích đền, chùa Hả Hộ xã Hồng Giang, đền Tam Giang xã Mỹ An, đền Chể xã Phượng Sơn, đình Hạ Long xã Giáp Sơn, đình Trại Cống xã Kiên Lao, đình Cống Luộc xã Đèo Gia, đền Khánh Vân thị trấn Chũ....Các di tích đều đã được xếp hạng, đặc biệt đền Từ Hả xã Hồng Giang được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Gắn liền với các di tích là lễ hội. Hội đền Hả được tổ chức vào ngày mồng 6 đến 8 tháng giêng hàng năm, hội chùa Khánh Vân từ 18 đến 20 tháng 2, hội đền Tam Giang, hội đền Chể....đặc biệt là hội hát của người dân các dân tộc thiểu số trong dịp đầu xuân.
Các lễ hội dân gian tiêu biểu của huyện Lục Ngạn
Trong các làng người Kinh của Lục Ngạn, mỗi làng đều có một ngôi đình và một ngôi chùa. Đình là nơi nhân dân thôn xã thờ thành hoàng làng, những người có nhiều công lao với dân với nước trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ gìn độc lập dân tộc và những người có công lập làng, lập bản. Chùa là nơi thờ phật và là nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Gắn liền với các thiết chế tôn giáo này là các lễ hội. Tùy theo từng làng, các ngày tổ chức lễ hội có khác nhau bởi ngày mở hội của các làng thường đúng vào ngày sinh hoặc ngày hóa của thánh từng làng nhưng thường là vào các dịp xuân thu nhị kỳ. Việc tổ chức lễ hội là để tỏ lòng tri ân với đức thánh đã phù hộ cho dân làng. Những năm được mùa, làng mở hội to có tế lễ, rước sách linh đình và tổ chức nhiều trò chơi dân gian khiến cho mọi thành viên trong cộng đồng đều thấy vui vẻ thoải mái sau những ngày lao động vất vả và cực nhọc.
Một lễ hội đình hay chùa của người Kinh thường bao gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Trong phần lễ, các cụ bản tự làm lễ tế thánh ở trong đình và rước thánh tuần du địa hạt hay diễn tả lại một trận đánh, một trò hội nói về công tích của vị thánh mà làng tôn thờ. Nếu là hội chùa thì thắp hương lễ phạt cầu an, mong muốn đức phật từ bi che chở cho mọi dòng tộc, mọi gia đình và các thành viên trong cộng đồng làng được an khang thịnh vượng, phong đăng hòa cốc. Ngoài sân đình sân chùa là các hoạt động văn hóa thể thao lành mạnh và bổ ích. Các trò chơi dân gian như: đu, đấu vật, kéo co...được diễn ra vui vẻ. Buổi tối, toàn dân trong vùng có hội lại được xem tuồng, chèo do làng đón từ các nơi khác ở dưới xuôi lên biểu diễn.
Lễ hội Đền Hả
Được tổ chức vào ba ngày 6,7,8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, trong các dịp hội người dân trong vùng tổ chức rước sách diễn lại sự tích của tướng quân Vũ Thành đánh giặc. Trong 3 ngày hội ở đền Hả, mồng 8 là chính hội. Tuy nhiên cả ba ngày đó các cụ bản tự đều tổ chức tế lễ ở đền và chùa. Riêng ngày mồng 8 thì dân làng rước kiệu thánh ra bãi Dược và tổ chức tế lễ ở đó. Cuộc rước được tiến hành từ giờ Mão đến hết giờ Ngọ của ngày mồng 8 tháng Giêng. Đây thực chất là một sự mô phỏng diễn tả lại tích trò Vũ Thành cầm quân đánh giặc. Cuộc rước ở lễ hội đền Hả là nét văn hóa độc đáo, tiêu biểu nhất của lễ hội và cũng là nét khác biệt của hội Từ Hả so với các lễ hội khác của tỉnh Bắc Giang. Theo quy định, nghi thức rước thần ở Hả Hộ diễn ra theo các bước: Lễ giao tín (vào giờ Mão), lễ rước ra, lễ phù giá (vào giờ Tỵ), lễ kỳ binh nhập trận, lễ tế ở bãi Dược, lễ vật thờ, lễ dân cỗ chay của các giáp; lễ đảo cờ (2 lần bắt đầu vào giờ Ngọ), lễ hoàn cung, lễ mộc dục hóa thảo xá, lễ chùa cầu siêu. Ngoài phần lễ là phần hội, gồm các trò hội như múa sư tử, hát Sloong hao, Sli, Lượn, Sắng cộ, sịnh ca... của đồng bào các dân tộc ít người. Các trò chơi dân gian như: đu tiên, đá cầu chinh và các trò chơi mới như: võ dân tộc, bóng đá, bóng bàn, cầu lông. Những hoạt động này nhằm thỏa mãn nhu cầu về tâm linh, nhu cầu văn hóa và qua đó giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào và tình đoàn kết dân tộc cho các thế hệ.
Hội chùa Khánh Vân-Đền Quan quận
Hội chùa Khánh Vân gồm hai phần: Phần tế lễ rước sách và phần vui chơi, giải trí, biểu diễn tích trò. Phần tế lễ do dân trong làng đảm nhiệm. Làng cử ra 4 ông cai đám mỗi ông cai đám ở một khoảnh, bốn ông cai đám có trách nhiệm về phần lễ hội trong ba ngày này.
Ngày 18 tháng 2 làng mở cửa đền, chùa làm lễ tắm phật, lau chùi quét dọn chuẩn bị cho lễ hội; Ngày 19 tháng 2 làm lễ nhập tịch vào đám. Làng cho đóng kiệu ở trong đình để rước tế lễ làm lễ cầu đảo diễn tích trò và bơi trải trên sông; ngày 20 tháng 2 dã đám, dân làng dọn dẹp và đóng cửa đền. Đội tế gồm 21 người lo việc tế lễ trong đền từ 10 giờ đến 11 giờ, trong lúc tế dân làng ra xem rất đông. Trong phần tế lễ ngoài phần khấn nôm nói đến công lao của Vi Hùng Thắng và những người được thờ ở đền, dân làng còn tụng hết một quyển khoa cúng của đền. Tế lễ xong dân làng tổ chức rước kiệu dương thần và âm thần do con cháu họ Vi ở xã Thanh Hải rước vì cụ tổ họ Vi chính là Vi Hùng Thắng. Địa điểm rước thần từ đền, chùa lên Nghè Mưa, một địa danh có truyền tích về quân dân nhà Trần đánh giặc Nguyên tại đây. Năm nào trời hạn thì dừng kiệu làm lễ cầu mưa, sau đó tiếp tục hành rước qua cầu Hôi lên Bình Nội rồi lại trở về đền Khánh Vân. Trong cuộc rước có nhiều đoạn đường " kiệu bay". Những trai kiệu " cứ rầm rập, rầm rập" đi như bay như có phép mầu nhiệm.
Sáng ngày 19 tháng 2 tại khúc sông khu vực làng Hà Thị, dân làng tổ chức diễn lại tích trận thủy chiến trên sông Lục Nam. Từ bến Thảo đến đền Khánh Vân, người ta sắp xếp khoảng 50 đến 60 thuyền chia làm hai phe: ta và giặc. Phe giặc (quân Nguyên) mặc áo đen, phe ta mặc áo nâu đỏ đầu đội nón, trước ngực có gắn vòng chữ "Trần". Diễn lại tích trò thủy chiến trên sông là tượng trưng cho trận đánh giữa quân đội nhà Trần với quân Nguyên ở thế kỷ XIII diễn ra tại vùng đất này. Diễn xong tích trò này làng đốt pháo, những thủy binh diễn trận được thưởng một mâm cỗ dọn cạnh đống lửa để họ vừa ăn vừa sưởi tránh rét.
Trong ngày hội, tục lệ ở đây có làm cỗ tế thành hoàng, cỗ cho khách thập phương và dân làng ăn. Cơm cỗ cho khách không quy định nhiều mâm hay ít mâm, ai đến gặp bữa thì đi ghi phiếu vào ăn. Tục lệ này xưa nay vẫn thế vì đó chính là khao quân của nhà thánh.
Ngoài các tiết lệ trên trong 3 ngày hội còn có các tro chơi khác như: chọi gà, tổ tôm điếm, cờ tướng và hát phường chèo, hát ca trù, thường đội hát là những trai thanh gái sắc của làng, họ bắt đầu hát từ lúc 5 giờ chiều cho đến nửa đêm mới thôi.
Trong hội đền Khánh Vân còn có lệ bơi chải trên sông để tưởng nhớ tới quân đội nhà Trần và tướng quân Vi Hùng Thắng trong trận chiến năm xưa đã hy sinh tại đây.
Vùng Lục Ngạn xưa có con đường chiến lược từ Đệ tứ chiến khu chạy qua xã Quý Sơn đến Đồng Giao, sang Mịn Con rồi sang Sậy To, Hồ Sen xã Thanh Hải, đi qua xã Kiên Lao và đến Đông Triều- Quảng Ninh và dòng sông Lục Nam lịch sử, tạo điều kiện thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, văn hóa của cả vùng.
Huyện Lục Ngạn là nơi có bề dày về truyền thống lịch sử- văn hóa với 01 di tích lịch sử cấp quốc gia (Đền Hả, Di tích lịch sử, được công nhận theo QĐ số 154/QĐ ngày 25/1/1991, thuộc xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn); 40 di tích lịch sử cấp tỉnh. Đây cũng là vùng đất có nhiều danh lam thắng cảnh có thể tạo nên những điểm tham quan du lịch hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về ngọn nguồn lịch sử. Đó là ải Nội Bàng, ải Xa Lý, với các di tích và danh lam thắng cảnh đẹp như đền Từ Hả (đền Hả), đền Quan Quận, hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần và núi Am Vãi- nơi in dấu bàn chân Phật. Nơi đây cũng đã sản sinh ra những vị anh hùng dân tộc, đóng góp một phần không nhỏ trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược từ ngàn xưa. Cũng từ truyền thống anh dũng bất khuất chống giặc ngoại xâm ấy, người dân các dân tộc sinh sống trên vùng đất Lục Ngạn đã lập nên các ngôi đình, đền, miếu để tưởng nhớ tới các chiến công của những người anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập tự do cho đất nước, từ Cao Sơn- Quý Minh- những vị tướng tài giỏi thời các vua Hùng, đến Thân Cảnh Phúc, Vi Hùng Thắng, Trần Hưng Đạo, Yết kiêu, Dã Tượng...Đó là các cụm di tích đền, chùa Hả Hộ xã Hồng Giang, đền Tam Giang xã Mỹ An, đền Chể xã Phượng Sơn, đình Hạ Long xã Giáp Sơn, đình Trại Cống xã Kiên Lao, đình Cống Luộc xã Đèo Gia, đền Khánh Vân thị trấn Chũ....Các di tích đều đã được xếp hạng, đặc biệt đền Từ Hả xã Hồng Giang được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Gắn liền với các di tích là lễ hội. Hội đền Hả được tổ chức vào ngày mồng 6 đến 8 tháng giêng hàng năm, hội chùa Khánh Vân từ 18 đến 20 tháng 2, hội đền Tam Giang, hội đền Chể....đặc biệt là hội hát của người dân các dân tộc thiểu số trong dịp đầu xuân.
Các lễ hội dân gian tiêu biểu của huyện Lục Ngạn
Trong các làng người Kinh của Lục Ngạn, mỗi làng đều có một ngôi đình và một ngôi chùa. Đình là nơi nhân dân thôn xã thờ thành hoàng làng, những người có nhiều công lao với dân với nước trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ gìn độc lập dân tộc và những người có công lập làng, lập bản. Chùa là nơi thờ phật và là nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Gắn liền với các thiết chế tôn giáo này là các lễ hội. Tùy theo từng làng, các ngày tổ chức lễ hội có khác nhau bởi ngày mở hội của các làng thường đúng vào ngày sinh hoặc ngày hóa của thánh từng làng nhưng thường là vào các dịp xuân thu nhị kỳ. Việc tổ chức lễ hội là để tỏ lòng tri ân với đức thánh đã phù hộ cho dân làng. Những năm được mùa, làng mở hội to có tế lễ, rước sách linh đình và tổ chức nhiều trò chơi dân gian khiến cho mọi thành viên trong cộng đồng đều thấy vui vẻ thoải mái sau những ngày lao động vất vả và cực nhọc.
Một lễ hội đình hay chùa của người Kinh thường bao gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Trong phần lễ, các cụ bản tự làm lễ tế thánh ở trong đình và rước thánh tuần du địa hạt hay diễn tả lại một trận đánh, một trò hội nói về công tích của vị thánh mà làng tôn thờ. Nếu là hội chùa thì thắp hương lễ phạt cầu an, mong muốn đức phật từ bi che chở cho mọi dòng tộc, mọi gia đình và các thành viên trong cộng đồng làng được an khang thịnh vượng, phong đăng hòa cốc. Ngoài sân đình sân chùa là các hoạt động văn hóa thể thao lành mạnh và bổ ích. Các trò chơi dân gian như: đu, đấu vật, kéo co...được diễn ra vui vẻ. Buổi tối, toàn dân trong vùng có hội lại được xem tuồng, chèo do làng đón từ các nơi khác ở dưới xuôi lên biểu diễn.
Lễ hội Đền Hả
Được tổ chức vào ba ngày 6,7,8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, trong các dịp hội người dân trong vùng tổ chức rước sách diễn lại sự tích của tướng quân Vũ Thành đánh giặc. Trong 3 ngày hội ở đền Hả, mồng 8 là chính hội. Tuy nhiên cả ba ngày đó các cụ bản tự đều tổ chức tế lễ ở đền và chùa. Riêng ngày mồng 8 thì dân làng rước kiệu thánh ra bãi Dược và tổ chức tế lễ ở đó. Cuộc rước được tiến hành từ giờ Mão đến hết giờ Ngọ của ngày mồng 8 tháng Giêng. Đây thực chất là một sự mô phỏng diễn tả lại tích trò Vũ Thành cầm quân đánh giặc. Cuộc rước ở lễ hội đền Hả là nét văn hóa độc đáo, tiêu biểu nhất của lễ hội và cũng là nét khác biệt của hội Từ Hả so với các lễ hội khác của tỉnh Bắc Giang. Theo quy định, nghi thức rước thần ở Hả Hộ diễn ra theo các bước: Lễ giao tín (vào giờ Mão), lễ rước ra, lễ phù giá (vào giờ Tỵ), lễ kỳ binh nhập trận, lễ tế ở bãi Dược, lễ vật thờ, lễ dân cỗ chay của các giáp; lễ đảo cờ (2 lần bắt đầu vào giờ Ngọ), lễ hoàn cung, lễ mộc dục hóa thảo xá, lễ chùa cầu siêu. Ngoài phần lễ là phần hội, gồm các trò hội như múa sư tử, hát Sloong hao, Sli, Lượn, Sắng cộ, sịnh ca... của đồng bào các dân tộc ít người. Các trò chơi dân gian như: đu tiên, đá cầu chinh và các trò chơi mới như: võ dân tộc, bóng đá, bóng bàn, cầu lông. Những hoạt động này nhằm thỏa mãn nhu cầu về tâm linh, nhu cầu văn hóa và qua đó giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào và tình đoàn kết dân tộc cho các thế hệ.
Hội chùa Khánh Vân-Đền Quan quận
Hội chùa Khánh Vân gồm hai phần: Phần tế lễ rước sách và phần vui chơi, giải trí, biểu diễn tích trò. Phần tế lễ do dân trong làng đảm nhiệm. Làng cử ra 4 ông cai đám mỗi ông cai đám ở một khoảnh, bốn ông cai đám có trách nhiệm về phần lễ hội trong ba ngày này.
Ngày 18 tháng 2 làng mở cửa đền, chùa làm lễ tắm phật, lau chùi quét dọn chuẩn bị cho lễ hội; Ngày 19 tháng 2 làm lễ nhập tịch vào đám. Làng cho đóng kiệu ở trong đình để rước tế lễ làm lễ cầu đảo diễn tích trò và bơi trải trên sông; ngày 20 tháng 2 dã đám, dân làng dọn dẹp và đóng cửa đền. Đội tế gồm 21 người lo việc tế lễ trong đền từ 10 giờ đến 11 giờ, trong lúc tế dân làng ra xem rất đông. Trong phần tế lễ ngoài phần khấn nôm nói đến công lao của Vi Hùng Thắng và những người được thờ ở đền, dân làng còn tụng hết một quyển khoa cúng của đền. Tế lễ xong dân làng tổ chức rước kiệu dương thần và âm thần do con cháu họ Vi ở xã Thanh Hải rước vì cụ tổ họ Vi chính là Vi Hùng Thắng. Địa điểm rước thần từ đền, chùa lên Nghè Mưa, một địa danh có truyền tích về quân dân nhà Trần đánh giặc Nguyên tại đây. Năm nào trời hạn thì dừng kiệu làm lễ cầu mưa, sau đó tiếp tục hành rước qua cầu Hôi lên Bình Nội rồi lại trở về đền Khánh Vân. Trong cuộc rước có nhiều đoạn đường " kiệu bay". Những trai kiệu " cứ rầm rập, rầm rập" đi như bay như có phép mầu nhiệm.
Sáng ngày 19 tháng 2 tại khúc sông khu vực làng Hà Thị, dân làng tổ chức diễn lại tích trận thủy chiến trên sông Lục Nam. Từ bến Thảo đến đền Khánh Vân, người ta sắp xếp khoảng 50 đến 60 thuyền chia làm hai phe: ta và giặc. Phe giặc (quân Nguyên) mặc áo đen, phe ta mặc áo nâu đỏ đầu đội nón, trước ngực có gắn vòng chữ "Trần". Diễn lại tích trò thủy chiến trên sông là tượng trưng cho trận đánh giữa quân đội nhà Trần với quân Nguyên ở thế kỷ XIII diễn ra tại vùng đất này. Diễn xong tích trò này làng đốt pháo, những thủy binh diễn trận được thưởng một mâm cỗ dọn cạnh đống lửa để họ vừa ăn vừa sưởi tránh rét.
Trong ngày hội, tục lệ ở đây có làm cỗ tế thành hoàng, cỗ cho khách thập phương và dân làng ăn. Cơm cỗ cho khách không quy định nhiều mâm hay ít mâm, ai đến gặp bữa thì đi ghi phiếu vào ăn. Tục lệ này xưa nay vẫn thế vì đó chính là khao quân của nhà thánh.
Ngoài các tiết lệ trên trong 3 ngày hội còn có các tro chơi khác như: chọi gà, tổ tôm điếm, cờ tướng và hát phường chèo, hát ca trù, thường đội hát là những trai thanh gái sắc của làng, họ bắt đầu hát từ lúc 5 giờ chiều cho đến nửa đêm mới thôi.
Trong hội đền Khánh Vân còn có lệ bơi chải trên sông để tưởng nhớ tới quân đội nhà Trần và tướng quân Vi Hùng Thắng trong trận chiến năm xưa đã hy sinh tại đây.